a. Vị trí của quy luật:
Đây
là 1 trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, nó vạch ra cách thức
của sự vận động, phát triển của sự vật trong thế giới.
b. Tóm
tắt nội dung:
Trong mỗi sự vật chất và lượng thống
nhất với nhau ở một độ nhất định. Lượng thường xuyên thay đổi, chất tương đối
ổn định. Khi lượng thay đổi đến điểm nút, trong điều kiện nhất định thì chất sẽ
thay đổi thông qua bước nhảy dẫn đến sự vật cũ được thay thế bởi sự vật mới. Ở
sự vật mới (chất mới) lượng lại tiếp tục thay đổi … cứ như vậy làm cho sự vật
không ngừng vận động, phát triển.
c.
Nội dung quy luật:
Chất: là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của
các sự vật, là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật là nó
chứ không phải là cái khác.
-
Cái
gì làm cho sự vật là nó chứ không phải là cái khác thì đó là chất của sự vật.
-
Chất
của sự vật chỉ bộc lộ thông qua các mối quan hệ
Ví
dụ: Chất của một người cụ thể chỉ được bộc lộ thông qua mối quan hệ với người
khác.
Ví
dụ: Anh A sống tốt vì anh A giúp đỡ mọi người.
-
Chất
của sự vật bộc lộ thông qua những thuộc tính của nó.
Ví
dụ: ngoài những thuộc tính giống loài vật con người có thuộc tính khác với loài
vật là: Biết chế tạo và xử dụng công cụ lao động.
-
Chất
của sự vật không chỉ quy định bởi chất của các yếu tố cấu thành mà còn tạo bởi
phương thức liên kết.
Ví
dụ: cũng là các phân tử các bon nhưng phương thức liên kết của than trì khác
với phương thức liên kết của kim cương.
Lượng: là một phạm trù triết học dùng để chỉ
tính quy định khách quan, vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát
triển của sự vật, cũng như của các thuộc tính của sự vật.
-
Nếu
như chất là cái làm cho nó là nó, thì lượng là cái chưa làm cho nó là nó
- Ở
đây chiều cao, cân nặng, trình độ vẫn là lượng của sự vật, bởi vì chiều cao,
cân nặng, trình độ vẫn chưa làm cho anh A khác với anh B.
-
Sự phân
biệt giữa chất và lượng chỉ mang tính tương đối, bởi sự phân
biệt đó phụ thuộc vào mối quan hệ cụ thể của sự vật với các sự vật khác.Ở mối
quan hệ này thì là chất song sang mối quan hệ khác nó lại đóng vai trò là
lượng.
-
Quan hệ biện chứng giữa lượng và
chất.
-
Bất kì sự vật nào cũng đều là thể
thống nhất của hai mặt : lượng và chất. Chúng gắn bó hữu cơ với nhau, quy định
lẫn nhau trong đó lượng là cái thương xuyên biến đổi, chất là cái tương đối ổn
định, lượng biến đổi đến một mức độ nhất định sự vật chuyển hóa, chất mới ra
đời thay thế chất cũ.
* Sự chuyển hoá cũng có thể diễn ra sau một quá
trình tích luỹ những thay đổi về lượng trong một khoảng giới hạn nhất định, mới dẫn tới sự thay đổi về chất.
Thí
dụ : Trạng thái (“chất”) của nước tương ứng với nhiệt độ t0C (“lượng”)
của nó. Trong khoảng 00C < t0C < 1000C
thì nước vẫn ở trạng thái lỏng (“chất cũ”).
Chỉ khi tới giới hạn toC = 1000C và tiếp tục cung cấp nhiệt lượng để
duy trì nhiệt độ đó, nước mới chuyển sang trạng thái hơi (“chất mới”). Khoảng giới hạn mà trong đó, sự thay
đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật được gọi là độ.
– Độ là một phạm trù triết học, dùng để chỉ khoảng giới hạn mà trong
đó, sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật.
Phạm trù Độ cũng nói lên sự thống nhất
giữa chất và lượng của sự vật. Trong thí dụ trên, khoảng từ 00C đến
1000C là đo tồn tại của nước ở trạng thái lỏng. (Lưu ý : phạm trù độ
trong triết học khác với khái niệm độ trong đời sống hằng ngày). Tại điểm giới
hạn (trong thí dụ trên là 00C và 1000C). Độ tiếp tục biến
đổi tới một giới hạn nhất định để làm thay đổi về chất, sự thay đổi tại điểm
tới hạn gọi là Điểm nút.
–
Điểm nút là một phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó, sự thay đổi
về lượng đủ để làm thay đổi về chất của sự vật.
Sự vật phát triển thông qua những độ
khác nhau, do đó tạo thành một đường nút của những quan hệ về độ trong quá
trình phát triển. Tại điểm nút, sự thay đổi vế chất của sự vật được gọi là bước
nhảy.
–
Bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hoá về chất của sự
vật. Sự chuyển hoá được thực hiện là do sự thay đổi về lượng trước đó của sự
vật gây ra.
Bước
nhảy có thể là bước nhảy tiến bộ, cũng có thể là bước nhảy thoái bộ, tuỳ theo
sự tích luỹ về lượng trước đó trong các trường hợp cụ thể khác nhau.
Các hình thức của bước nhẩy
Bước nhầy đột biến là bước nhảy thực hiện trong thời gian
rất ngắn làm thay đổi chất của toàn bộ kết cấu sự vật.
VD:
lượng uranium 235 đuợc tăng đến giới hạn nhất định sẽ tạo ra vụ nổ nguyên tử.
Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực hiện từ từ từng
bước băng cách tích lũy dân dần những nhân tố của chất mới và những nhân tố của
chất cũ dần dần mất đi.
VD:
Từ chất của một sinh viên sang chất của một cử nhân phải có quá trình tích lũy
kiến thức nâu dài suốt 4 năm.
Căn
cứ vào các hình thức của bước nhẩy có bước nhày toàn bộ và bước nhảy cục bộ.
Bước nhảy toàn bộ là bước nhẩy làm thay đổi chất của
toàn bộ các mặt các yếu tố cấu thành sự vật.
Bước nhảy cục bộ là bước nhảy thay đổi của những mặt
những yếu tố riêng lẻ của sự vật.
* Sự tác động trở lại của chất đối với lượng.
Khi chất mới ra đời, nó không tồn tại một cách thụ động, mà có sự tác động trở
lại đối với lượng, được biểu hiện ở chỗ, chất mới sẽ tạo ra một lượng mới cho
phù hợp với nó để có sự thống nhất mới giữa chất là lượng. Sự quy định này có
thể được biểu hiện ở quy mô, nhịp độ và mức độ phát triển mới của lượng.
d. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Trong
nhận thức và hoạt động thực tiễn phải chú ý tích lũy dẫn những thay đổi về
lượng, đồng thời phải biết thực hiện kịp thời những bước nhảy khi có điều kiện
chín muồi.
- Chống
lại quan điểm tả khuynh: chủ quan, nóng vội, duy ý chí, khi lượng chưa biến đổi
đến điểm nút đã thực hiện bước nhảy.
- Chống
lại quan điểm hữu khuynh: bảo thủ, trì trệ, khi lượng đã biến đổi đến điểm nút
nhưng không thực hiện bước nhảy.
- Phải
thấy được tính đa dạng của các bước nhảy, nhận thức được từng hình thức bước
nhảy, có thái độ ủng hộ bước nhảy, tạo mọi điều kiện cho bước nhảy được thực
hiện một cách kịp thời.
- Phải có thái độ khách
quan và quyết tâm thực hiện bước nhảy khi hội đủ các điều kiện chín muồi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét